Hiển thị các bài đăng có nhãn Series Cases of Gray's anatomy. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Series Cases of Gray's anatomy. Hiển thị tất cả bài đăng

1/10/19



Đây là series Cases of Gray' s anatomy (14th) phiên bản dịch lụi.

Case cuối: Giãn tĩnh mạch thừng tinh (Varicocele)
Bệnh nhân nam 25 tuổi đến bác sĩ gia đình của anh ấy vì anh ta có cảm giác như kéo lê vật gì đó rất nặng ở bên trái bìu của anh ta. Anh ta khỏe mạnh và không có triệu chứng nào khác. Qua thăm khám, bác sĩ sờ nắn tinh hoàn bên trái, nó vẫn bth, mặc dù ghi nhận có nhiều u nhỏ mềm sưng xung quanh cạnh trên của tinh hoàn và mào tinh. Nó được mô tả như "túi toàn sâu" và "túi toàn sâu" đó là 1 loại giãn tĩnh mạch thừng tinh.
Dẫn lưu tĩnh mạch của tinh hoàn thông qua đám rối tĩnh mạch hình dây leo chạy trong thừng tinh. Giãn tĩnh mạch thừng tinh là giãn các tĩnh mạch phát sinh từ đám rối đó. Chúng tương tự như giãn tĩnh mạch ở chân. Điển hình, bệnh nhân phàn nàn về cảm giác "kéo lê" ở bìu và xung quanh tinh hoàn, thường tệ hơn vào cuối ngày.
Các bác sĩ gia đình khuyên nên phẫu thuật thông qua vết rạch ở bẹn. Một kĩ thuật phẫu thuật đơn giản phân chia vùng da xung quanh dây chằng bẹn. Cân của cơ chéo bụng ngoài chia thành bụng trước để lộ ra thừng tinh. Kiểm tra cẩn thận thừng tinh cho thấy các tĩnh mạch,...which are surgically ligated ( đã được thắt lại _ không hiểu chỗ này lắm).
Một lựa chọn khác là thuyên tắc tĩnh mạch
Trong kĩ thuật này, một ống nhỏ (catheter) sẽ được đặt thông qua tĩnh mạch đùi phải. Ống thông sẽ được đưa lên dọc theo tĩnh mạch chậu ngoài và tĩnh mạch chậu chung và vào tĩnh mạch chủ dưới. Sau đó, ống thông sẽ được đặt ở thận trái, chụp tĩnh mạch đồ ( venogram) được thực hiện và cho thấy nguyên ủy của tĩnh mạch tinh hoàn trái. Ống thông được đưa xuống tĩnh mạch tinh hoàn trái vào tĩnh mạch của ống bẹn và đám rối tĩnh mạch hình dây leo... Metal coils to occlude vessels are injected, and the catheter is withdrawn ( đặt cái metal coil để trong mạch bị xung huyết để cản lại, rồi rút ống thông)
Bệnh nhân thắc mắc máu dẫn lưu như thế nào từ tinh hoàn sau phẫu thuật ?
Mặc dù tĩnh mạch chính của tinh hoàn đã bị cản lại, tĩnh mạch nhỏ chạy trong bìu và xung quanh cạnh ngoài của thừng tinh cho phép dẫn lưu và không tái phát lại.


Đây là series Cases of Gray' s anatomy (14th) phiên bản dịch lụi (dịch đại)

Case 10: U trong tử cung
Bệnh nhân nữ 35 tuổi tới gặp bác sĩ vì cô cảm thấy bị " đầy hơi " và bụng chướng lên. Bác sĩ khám qua vùng bụng dưới thì thấy 1 khối u kéo dài từ nghành trên xương mu tới ngang mức rốn.
Bờ trên của khối u rất dễ sờ thấy nhưng bờ dưới thì khó xác định hơn.
Bệnh nhân có 1 khối ở vùng chậu hông.
Khi khám bệnh nhân ở tư thế nằm ngửa, bác sĩ nên quan sát toàn bộ vùng bụng. Khám qua cho thấy 1 chỗ phình ở vùng bụng dưới tới ngang mức rốn. Sờ nắn thì thấy 1 khối cứng và rất không bình thường với bờ trên và bờ ngoài dễ xác định và bờ dưới khó xác định hơn, cho ấn tượng rằng khối u đó có thể tiếp tục vào vùng chậu hông. Gõ thì nghe tiếng đục. Thính chẩn không nghe thấy âm thanh nào bất thường.
Bác sĩ đang suy nghĩ về nguồn gốc của khối u. Qua khám chậu hông, quan trọng nhớ sự khác nhau giữa nam và nữ. Điểm chung giữa nam và nữ là trực tràng, ruột, bàng quang và các cơ. Một số bệnh lí cũng phổ biến cho 2 giới gồm áp xe vùng chậu và ứ dịch.
Ở nam, tuyến tiền liệt không thể sờ thấy qua da và rất hiếm khi nó phình như vậy trọng bệnh lành tính. Ung thư tuyến tiền liệt có thể xâm lấn qua toàn bộ vùng chậu, điều này thường kết hợp với tắc ruột và nặng bàng quang.
Ở nữ, một số cơ quan có thể phát triển các khối lớn gồm buồng trứng (u rắn và u nang), di tích phôi trong dây chằng rộng (the embryological remnants within the broad ligaments), và tử cung (thai hoặc u xơ).
Bác sĩ cần phải hỏi thêm bệnh nhân và nó luôn quan trọng trong việc xác định thông tin kể cả khi bệnh nhân có thai (đôi khi, bệnh nhân có thể ngạc nhiên về việc mang thai của mình).
Xét nghiệm thử thai âm tính. Sau khi bệnh nhân đã làm trống bàng quang của mình, không có sự thay đổi nào về khối đó. Bác sĩ nghĩ rằng khối đó có thể là 1 khối u lành tình phổ biến ở tử cung (u xơ). Để xác định chẩn đoán, bác sĩ siêu âm vùng chậu và xác nhận nó là một u xơ bắt nguồn từ tử cung.
Bệnh nhân đã được chuyển đến khoa phụ khoa, sau 1 cuộc thảo luận dài về triệu chứng, khả năng sinh con, và nguy cơ, phẫu thuật viên và bệnh nhân đã quyết định cắt tử cung. Bệnh nhân tham khảo ý kiến từ các người khác, tất cả đều cho là nên phẫu thuật.
U xơ đã được cắt mà không có biến chứng nào ^^
P/s : Đừng thức khuya nữa.



Đây là series Cases of Gray' s anatomy (14th) phiên bản dịch lụi (dịch đại).

Case 9 : Áp xe cơ thắt lưng.
Bệnh nhân nữ 25 tuổi phàn nàn về cơn đau thắt lưng tăng dần. Vào những tuần sau đó, ghi nhận 1 cục bướu rộng dần ở háng phải sờ vào mềm và nhẹ. Hỏi chi tiết thì bệnh nhân cũng phàn nàn về việc ho có đờm với đờm có chưa chất nhầy và máu kèm theo sốt nhẹ.
X_quang ngực cho thấy 1 khối u ở đỉnh phổi (a cavitating apical lung mass), nó giải thích cho tiền sử bệnh phổi.
Với độ tuổi của bệnh nhân thì ung thư phổi nguyên phát là không có khả năng. Ho ra máu (máu trong đờm) và phần còn lại của tiền sử cho thấy bệnh nhân bị nhiễm trùng phổi. Kết quả X_quang ngực cho thấy có 1 khoảng trống ở vùng đỉnh phổi, chẩn đoán là bệnh lao. Điều này đã được xác nhận bởi nội soi phế quản và hút mủ.
Trong khi phổi của bệnh nhân bị nhiễm trùng, trực khuẩn lao đã lây lan thông qua máu tới đốt sống XI. Sự hủy xương bắt đầu trong phần xương xốp của đốt sống gần với các đĩa đệm. Bệnh tiến triển và ăn mòn vào các đĩa đệm, đã trở nên nhiễm trùng. Đĩa đệm đã bị phá hủy, và các đĩa nhiễm trùng đã đẩy các đĩa xung quanh ra phía trước và vào bao cơ thắt lưng. Không hiếm khi phát hiện nhiễm trùng lao ở phần cột sống thắt lưng.
Khi nhiễm trùng tiến triển, mủ lan rộng trong bao cơ thắt lưng bên dưới dây chằng bẹn để tạo ra một khối u cứng trong háng. Đây là 1 kiểu điển hình cho áp xe cơ thắt lưng.
May mắn cho bệnh nhân, không có minh chứng về tổn thương trong ống sống.
Bệnh nhân đã được điều trị bằng tia phóng xạ và trải qua 6 tháng với chế độ kháng sinh lâu dài (long_term antibiotic regiment). Cô ấy đã hồi phục mà không có triệu chứng gì thêm, mặc dù lỗ (cavity) trong phổi vẫn còn. Nó đã xơ cứng lại và k gây nguy hiểm nữa.


28/9/19


Đây là series Cases of Gray' s anatomy (14th) phiên bản dịch lụi.

Case 8: Tổn thương khớp gối
Một chàng trai trẻ đang nghỉ dưỡng và trượt tuyết tại resort trượt tuyết Châu Âu.Trong khi đua với một người bạn, anh ta va phải vào cạnh trong của ván trượt bên phải. Anh ta mất thăng bằng và ngã. Trong lúc loạng choạng, anh ta nghe thấy tiếng " click ". Hồi phục sau cú ngã đó, anh ta bị đau rất nhiều ở gối phải. Anh ta đã không thể nào trượt tiếp được và khi trở về nhà gỗ (chalet), đầu gối a đã bị sưng đáng kể. Ngay lập tức, anh ta tới gặp bs chấn thương chỉnh hình.

Khi trượt tuyết xuống dốc với hai ván trượt song song. Mắt cá chân được giữ cứng trong ủng (là giữ cứng ngắc, k biến dạng được luôn) và đầu gối hơi gấp lại. Mất tập trung 1 lúc đã khiến anh ta va vào cạnh trong của ván phải. Việc này buộc giày và bắp chân xoay ra ngoài. Hơn nữa, đầu gối bị buộc phải ở vị trí valgus (uốn cong cách xa đường giữa) và người trượt tuyết ngã nhào. Cả hai ván trượt đều tách ra khỏi đôi ủng như là bindings (cái để cố định đôi ủng và ván trượt) đã cho phép chúng như vậy (kiểu như cái bindings bị hư nên ủng với ván mới tách ra).
Một loạt các cấu trúc trong khớp gối bị tổn thương liên tiếp.
Khi đâu gối xoay ra ngoài và bị vào thế valgus, dây chằng chéo trước trở nên căng, như 1 điểm tựa của gối. Dây chằng bên chày đã bị oằn xuống và khoang đầu gối ngoài bị nén lại (... the lateral compartment of the knee). Khi lực ép tăng,dây chằng bên chày sẽ bị rách, cũng như các sụn chêm. Cuối cùng, dây chằng chéo trước bị căng đã bị thế chỗ (bởi dây chằng bên chày  :v chắc vậy).
Khớp gối bắt đầu sưng vài giờ sau đó.(Khớp sưng là do dây chằng chéo trước). Dây chằng thì ở ngoài bao hoạt dịch và trong bao khớp (intracapsular) và có nhiều mạch máu cung cấp. Khi dây chằng rách, nó sẽ làm khớp bị đứt. Máu từ chỗ rách sẽ kích thích (irritates - có thể hiểu là làm viêm) màng bao hoạt dịch và vào khớp. Những yếu tố này làm khớp sưng dần trong nhiều giờ tới với lượng dịch tích trữ trong khoang khớp.
Bn đã được phẫu thuật tái tạo lại dây chằng chéo trước.
Thật khó để tìm thấy 1 chất nhân tạo có thể hoạt động và tính chất vật lí như dây chằng chéo trước. Hai phương pháp phổ biến là sử dụng dây chằng khoeo (gân) và gân khoeo để tái tạo dây chằng.
Bn đã được phẫu thuật thêm.Dây chằng bên chày cũng được phục hồi.
Sử dụng kĩ thuật mổ nội soi, vết rách ở sụn chêm trong đã được ngăn ngừa để biến chứng thêm.
P/s: Chắc k ai trượt tuyết đâu ha  =))))


Case 7: Thận vùng chậu
Một người phụ nữ trẻ đến bác sĩ gia đình vì cô ta bị đau bụng trên bên trái. Siêu âm cho thấy có sỏi mật trong túi mật, nó giải thích cơn đau cho bệnh nhân. Tuy nhiên, khi kiểm tra vùng chậu hông, bác sĩ ghi nhận một khối sau bàng quang, tựa như thận khi xem trên siêu âm.
Kĩ thuật viên siêu âm sẽ làm gì tiếp theo? Có khối ở vùng chậu sau bàng quang, nên kĩ thuật viên đã kiểm tra cả thận. Bệnh nhân có thận phải bình thường. Tuy nhiên, thận trái không được tìm thấy ở chỗ thông thường. Kĩ thuật viên chẩn đoán là thận vùng chậu (pelvic kidney). Thận vùng chậu có thể giải thích bằng phôi học. Thận phát triển từ một loạt cấu trúc phức tạp kế bên bàng quang trong chậu hông của thai nhi. Qua quá trình phát triển, chúng đã đạt được 1 vị trí ở bụng trên, kế bên động mạch chủ bụng và tĩnh mạch chủ dưới, trên thành bụng sau. Ngừng phát triển hoặc biến chứng có thể ngăn thận ở đúng vị trí thông thường của nó.
May mắn là hiếm có bệnh nhân nào có triệu chứng liên quan tới thận vùng chậu.
Bệnh nhân này không có triệu chứng nào để quy về thận vùng chậu và cô ta đã được xuất viện.
(This patient had no symptoms attributable to the pelvic kidney and she was discharged)
Thận vùng chậu theo e tìm hiểu cũng có thể là do ghép thận nhân tạo. Động mạch với tĩnh mạch thận ghép vào động mạch tĩnh mạch chậu, còn niệu quản thì khâu với bàng quang 




Đây là series Cases of Gray' s anatomy (14th) phiên bản dịch lụi (dịch đại).

Case 6: Tụ máu ngoài màng cứng
Một người đàn ông 33 tuổi đang chơi bóng gậy (cricket) cho đội của anh ta ở địa phương. Khi người giao bóng ném banh, nó nảy cao hơn anh ta dự đoán và va vào đầu của anh ta. Anh ta lập tức ngã xuống đất trong vô thức, nhưng khoảng 30s sau anh ta được đỡ đứng dậy... and felt otherwise well (cảm thấy nếu không giúp thì tốt hơn :v). Có vài vết bầm xung quanh thái dương của anh ta. Anh ta quyết định không chơi nữa và xem tiếp ở cạnh sân. Hơn 1 giờ sau, anh ta cực kì buồn ngủ và cuối cùng là không tỉnh táo được. Anh ta được cho đi cấp cứu.
Khi được đưa vào bệnh viện, bệnh nhân thở dốc và không đều, cần phải đặt nội khí quản cho anh ta. X_quang sọ cho thấy có nứt ở vùng pterion (vùng hội tụ giữa xương trán,xương đỉnh và cánh lớn xương bướm). Không có bất thường khác nào ngoài vết bầm nhỏ ở mô mềm trên hố thái dương trái.
CT cho thấy vùng nhân bèo với tỷ trọng cao trong hố sọ trái.
Chẩn đoán là tụ máu ngoài màng cứng.
Gãy nứt ở vùng pterion vô cùng nguy hiểm. Một đoạn của động mạch màng não giữa đi sâu qua chỗ này và nó có thể bị rách và gián đoạn, đặc biệt khi kết hợp với chấn thương sọ trong vùng này. Trong case này, động mạch màng não giữa đã bị rách, tạo 1 cục máu đông lớn.
Huyết áp bệnh nhân bắt đầu tăng.
Trong hộp sọ có 1 lượng nhất định và rõ ràng là cái gì đi vào thì phải đi ra (máu, dịch não tủy). Nếu có 1 tổn thương chiếm chỗ, như máu tụ ngoài màng cứng, thì không có không gian để nó giải nén. Và nếu tổn thương này mở rộng, não sẽ bị nén lại và áp lực nội sọ tăng. Áp lực này sẽ nén mạch máu, làm giảm áp lực tưới máu não. Để chống lại cơ chế cân bằng nội môi, tăng huyết áp để chống lại áp lực nội sọ. Không may, tăng áp lực nội sọ nhiều hơn do phù não xuất hiện sau chấn thương ban đầu. (the increase in intracranial pressure is compounded...)
Phẫu thuật khẩn cấp được thực hiện.
Các lỗ Burr đã được đặt xung quanh vùng máu tụ và nó (cục máu) đã được lấy ra.
Nhánh nhỏ của động mạch màng não giữa bị đứt và bệnh nhân đã ở vài ngày trong phòng chăm sóc đặc biệt. Sau đó bệnh nhân đã hồi phục hoàn toàn.



Đây là series Cases of Gray' s anatomy(14th ) phiên bản dịch lụi ( dịch đại ) mà em làm để thời gian trôi nhanh hơn ...

Case 5: Biến chứng của gãy xương gò má.
Bệnh nhân nam 35t đã đánh nhau và bị đấm vào hốc mắt phải . Anh ta đến cấp cứu với tình trạng song thị (double vision).
Kiểm tra ổ mắt cho thấy rằng bệnh nhân được yêu cầu nhìn lên, mắt phải không thể di chuyển lên trên khi khép. Có một số hạn chế khi cử động mắt. Kiểm tra cơ thẳng ngoài ( dây VI ), cơ chéo trên ( dây IV ) và các cơ còn lại của mắt ( dây lll ) nếu không có gì nổi bật.
Bệnh nhân được cho chụp CT.
CT scan xương mặt và cho thấy có gãy nứt qua sàn của ổ mắt.
Đánh giá CT này kĩ hơn thì thấy cơ chéo dưới đã bị kéo thấp hơn cùng với mảnh xương bị vỡ. Vì vậy, khi bệnh nhân được yêu cầu nhìn lên, mắt trái đã có thể làm như vậy nhưng mắt phải thì không thể, do có sự buộc của cơ chéo dưới.
Bệnh nhân đã trải qua phẫu thuật thăm dò (surgical exploration) để nâng mảnh xương vỡ và đưa cơ chéo dưới trở về vị trí thích hợp. Qua theo dõi, bệnh nhân không có biến chứng.


Đây là series Cases of Gray' s anatomy (14th) phiên bản dịch lụi.


Case 4: Biến chứng của gãy xương sườn 1
Một bệnh nhân nữ 25 tuổi đã bị tai nạn và văng ra khỏi xe máy của cô ấy. Khi cấp cứu, cô ấy bị mất ý thức. Một loạt các xét nghiệm và cận lâm sàng được thực hiện, bao gồm cả X_Quang ngực . Bác sĩ có mặt tại đó đã chú ý tới sự gãy phức tạp của xương sườn 1 bên trái.
Nhiều cấu trúc quan trọng cung cấp thông tin về chi trên qua xương sườn 1 .
Quan trọng là phải kiểm tra thần kinh của cánh tay và bàn tay, mặc dù rất khó để kiểm tra khi mà bệnh nhân mất ý thức . Tuy nhiên, một vài phản xạ cơ có thể xác định bằng búa phản xạ (tendon hammer). Ngoài ra, có thể kiểm tra phản xạ đau của bệnh nhân với Altered consciousness levels (1 loại thang đo và phân loại về ý thức: metaconscious, conscious, confused,...). Kiểm tra xung động mạch nách, động mạch cánh tay, động mạch quay và động mạch trụ là cần thiết vì xương sườn 1 gãy có thể cắt đứt hoặc tróc vỏ đm dưới đòn , khi nó đi qua.
Ống dẫn lưu ngực ngay lập tức được đặt vào vì phổi đã xẹp . Xương sườn 1 gãy đã làm tổn thương nội tạng và màng phổi thành , cho phép không khí từ phổi bị rách ( torn lung ) thoát vào khoang màng phổi . Phổi bị xẹp , khoang màng phổi chứa đầy không khí , làm suy giảm chức năng phổi .
Vậy nên ống dẫn lưu được chèn vào giữa các xương sườn để không khí thoát ra và " bơm " lại phổi .
Xương sườn 1 là 1 cấu trúc sâu dưới nền cổ . Không có gì lạ khi xương sườn bị gãy sau chấn thương nhỏ . Tuy nhiên , xương sườn 1 , nằm ở nền cổ , bao quanh bởi cơ và các mô mềm nên nó được bảo vệ đáng kể . Vậy nên khi bn gãy xương sườn 1 thì chắc chắn ( undoubtedly ) đã chịu 1 lực đáng kể ( consirderable force ) , thường xảy ra trong chấn thương khi giảm tốc ( deceleration injury ) . Các chấn thương khác nên luôn luôn được tìm kiếm và bn nên được quan tâm cao khi chấn thương sâu ở cổ và trung thất .



Đây là series Cases of Gray' s anatomy (14th) phiên bản dịch lụi.

Case 3 : Khám bàn tay như thế nào?

Cơ xương :

Gồm xương , khớp , cơ và gân . T ( tên bs ) nên tìm các bất thường và chỗ bị teo cơ (muscle wasting ) . Biết chỗ nào bị teo và xác định thần kinh chi phối chỗ đó . T sờ nắn từng xương riêng lẻ và sờ xương thuyền với cổ tay trong ulnar deviation ( 1 loại bệnh mà sưng khớp ở đốt gần , làm các ngón tay xu hướng dịch chuyển về ngón út ) . T kiểm tra chuyển động khớp vì chúng có thể bị giới hạn bởi bệnh khớp hoặc không co cơ được .
Tuần hoàn :

Xem mạch của cả đm quay và đm trụ là cần thiết . T cần tìm thời gian đổ đầy mao mạch để đánh giá mức độ tưới máu của bàn tay .
Thần kinh :

Có ba dây thần kinh chính cần được kiểm tra .
Thần kinh giữa :
Tổn thương tk giữa gây teo ô mô cái , không dạng ngón cái được , không đối chiếu ngón cái được .
Thần kinh trụ :
Tổn thương tk trụ gây teo ô mô út , không gấp được các khớp gian đốt xa của ngón út và ngón nhẫn . Sự khép của ngón cái cũng bị ảnh hưởng .
Thần kinh quay :
( Chủ yếu phần này chỉ nói về chi phối thôi )

Một kiểm tra rất đơn giản cho tk giữa là đối chiếu ngón cái , cho tk trụ là khép và dạng các ngón , cho tk quay là kéo dãn cổ tay và các ngón tay và cảm nhận đằng sau của first web space ( chỗ mô mềm giữa nền của ngón cái và ngón trỏ ) .



Đây là series Cases of Gray' s anatomy (14th) phiên bản dịch lụi.

Case 2: Carcinoma ( ung thư biểu mô) ở đầu tụy

Một người phụ nữ 52t phàn nàn về việc gia tăng trạng thái lờ đờ ( lethargy ) và nôn mửa . Bs đã khám và để ý cân nặng của cô ấy đã giảm đáng kể so với lần khám trước đó . Cô ấy cũng vàng da và khi khám bụng thì xác định được 1 khối rộng khoảng 10cm sờ được bờ dưới của gan ở góc phần tư bên trên phải .
Chẩn đoán lâm sàng là carcinoma ở đầu tụy .
Thật khó khi mà chẩn đoán đỉnh vậy chỉ được chẩn đoán qua 3 dấu hiệu lâm sàng .
Sự tắc nghẽn của bn là ở ống mật chủ . Khi mà bn vàng da , là do hồng cầu bị phá vỡ quá mức ( tiền sử ) , suy gan ( vàng da do gan ) , posthepatic causes ( có nguồn gốc sau khi mật rời khỏi gan ) , gồm cả tắc nghẽn dọc theo chiều dài ống mật .
Bn có 1 khối ở góc phần tư bên trên phải có thể sờ được dưới gan , đó là túi mật .
Bình thường , túi mật không sờ được . Túi mật phình ra cho thấy sự tắc nghẽn trong ống túi mật ... or below the level of the cystic duct insertion (i.e.., the bile duct )
Sự nôn mửa của bn có liên quan tới vị trí khối u .
Không hiếm khi nôn và giảm cân xảy ra khi bn mắc bệnh ác tính . Đầu tụy nằm trong đường cong của tá tràng , chủ yếu tiếp giáp với phần xuống của tá tràng . Bất kì khối u nào trong vùng đầu tụy cũng có khả năng bao vây và xâm lấn tá tràng . Không may , trong ca này , tạo ra 1 sự tắc nghẽn gần như hoàn toàn ( producing almost complete obstruction ) . Thảo luận với bn thì cô ta tiết lộ cô thường hay nôn 1 lượng tương đối thực phẩm chưa được tiêu hóa sau mỗi bữa ăn .
CT cho thấy các biến chứng tiếp theo
(Theo CT) Vùng đầu và cổ tụy khá phức tạp , có thể liên quan tới 1 quá trình ác tính . CT xác nhận là có khối ( mass ) trong vùng đầu và cổ tụy , đã xâm lấn phần xuống của tá tràng . Khối đó đã mở rộng vô trong cổ tụy và chặn phần xa của ống tụy và ống mật . Ở sau khối đã xâm lăng trực tiếp vào ngã ba tm cửa, tm mạc treo tràng trên, tm lách , làm giãn dạ dày , lách , ruột non...
Bn này đã trải qua hóa trị và giảm nhẹ , nhưng đã chết 7 tháng sau đó .




Đây là series Cases of Gray's anatomy (14th) phiên bản dịch lụi (phần 1)

Huyết khối mãn tính của tĩnh mạch chủ dưới .

Một sv y khoa (T) được yêu cầu kiểm tra bụng của 2 bệnh nhân. Ở bn 1, T để ý các tm bất thường tỏa ra quanh rốn . Ở bn 2 T cũng để ý các tm bất thường , chảy từ sau ra trước ( coursing in a caudal to cranial direction ) , qua thành bụng trước từ háng cho tới ngực . T được yêu cầu giải thích những gì T thấy và chỉ ra nó quan trọng ntn?

Ở bn 1, các tm tỏa ra xung quanh từ vùng rốn. Ở người bình thường, giãn tm không tỏa ra từ rốn. Trong tăng áp tm cửa , áp suất tm cửa tăng do bệnh gan. Các nhánh tm bên nhỏ phát triển quanh di tích tm rốn. Những tm này đi qua rốn và dẫn lưu (chảy) ra phía trước thành bụng , tạo nên vòng nối quanh rốn (Forming a portosystemic anastomosis). Chẩn đoán cuối cùng là xơ gan.

Việc tìm thấy các tm chảy theo hướng sau - trước trên thành bụng trước ở bn 2 là không điển hình cho các tm ở thành bụng trước . Khi tm trở nên nổi bật , thì thường là do đường dẫn lưu bình thường đã tắc nghẽn và đường dẫn lưu khác thay thế đã được thực hiện . Điển hình , máu từ chi dưới và các cơ quan sau phúc mạc chảy vào tm chủ dưới và chảy vào nhĩ phải . Bn có huyết khối mãn tính ở tm chủ dưới , ngăn máu trở về tim theo đường bình thường .

Do huyết khối mãn tính ở tm chủ dưới ban đầu , các tm của thành bụng trước và các con đường thay thế phải giãn ra để đáp ứng sự gia tăng lượng máu.


This Blog is protected by DMCA.com

Online English Test
Series Cases of Gray' s anatomy (14th)

Dược lý - Dược lâm sàng

Bài giảng Tim mạch

Popular Posts